Cambridge IELTS 16

Changes in reading habits

What are the implications of the way we read today? Look around on your next plane trip.
Jul 11,2022
.

What are the implications of the way we read today?

Những ảnh hưởng trong cách chúng ta đọc gì?

 

Look around on your next plane trip.

Hãy nhìn xung quanh trên chuyến bay tiếp theo của bạn.

 

The iPad is the new pacifier for babies and toddlers.

IPad là núm vú giả mới dành cho trẻ sơ sinh và trẻ tập đi.

 

Younger school-aged children read stories on smartphones; older kids don’t read at all, but hunch over video games.

Trẻ em trong độ tuổi đi học đọc truyện trên điện thoại thông minh; những đứa trẻ lớn hơn thì không đọc gì hết, nhưng lại khom lưng vào những trò chơi điện tử.

 

Parents and other passengers read on tablets or skim a flotilla of email and news feeds.

Bố mẹ và các hành khách khác đọc trên máy tính bảng hoặc đọc lướt một loạt email và tin tức.

 

Unbeknown to most of US, an invisible, game-changing transformation links everyone in this picture: the neuronal circuit that underlies the brain’s ability to read is subtly, rapidly changing and this has implications for everyone from the pre-reading toddler to the expert adult.

Hầu hết mọi người ở Hoa Kỳ đều không biết, có một sự biến đổi vô hình trong trò chơi kết nối tất cả mọi người trong viễn cảnh này: mạch tế bào thần kinh làm nền tảng cho khả năng đọc của não thay đổi một cách tinh vi, nhanh chóng và điều này có ảnh hưởng đến tất cả mọi người từ trẻ mới biết đi đang tập đọc đến những người lớn đã thành thạo.

 

As work in neurosciences indicates, the acquisition of literacy necessitated a new circuit in our species’ brain more than 6,000 years ago.

Như nghiên cứu trong khoa học thần kinh đã chỉ ra, việc đạt được khả năng đọc đòi hỏi một mạch mới trong não của loài người chúng ta hơn 6.000 năm trước.

 

That circuit evolved from a very simple mechanism for decoding basic information, like the number of goats in one’s herd, to the present, highly elaborated reading brain.

Mạch đó đã phát triển từ một cơ chế rất đơn giản để giải mã thông tin cơ bản, chẳng hạn như số lượng dê trong đàn, cho đến hiện tại, bộ não đọc rất phức tạp.

 

My research depicts how the present reading brain enables the development of some of our most important intellectual and affective processes: internalized knowledge, analogical reasoning, and inference; perspective-taking and empathy; critical analysis and the generation of insight.

Nghiên cứu của tôi mô tả cách bộ não đọc hiện tại cho phép sự phát triển của một số quá trình trí tuệ và tình cảm quan trọng nhất của chúng ta: kiến ​​thức nội tại, lý luận loại suy và suy luận; quan điểm và sự đồng cảm; phân tích phê bình và tạo ra cái nhìn sâu sắc.

 

Research surfacing in many parts of the world now cautions that each of these essential ‘deep reading’ processes may be under threat as we move into digital based modes of reading.

Nghiên cứu đang nổi lên ở nhiều nơi trên thế giới hiện cảnh báo rằng mỗi quá trình ‘đọc sâu’ thiết yếu này có thể bị đe dọa khi chúng ta chuyển sang các phương thức đọc dựa trên chế độ kỹ thuật số.

 

This is not a simple, binary issue of print versus digital reading and technological innovation.

Đây không phải là một vấn đề đơn giản, bản in hệ nhị phân thông qua những sáng kiến về công nghệ và việc đọc.

 

As MIT scholar Sherry Turkle has written, we do not err as a society when we innovate but when we ignore what we disrupt or diminish while innovating.

Như học giả Sherry Turkle của MIT đã viết, chúng ta không phải là một xã hội sai lầm khi chúng ta đổi mới, mà là khi chúng ta bỏ qua những gì chúng ta phá vỡ hoặc giảm bớt trong khi đổi mới.

 

In this hinge moment between print and digital cultures, society needs to confront what is diminishing in the expert reading circuit, what our children and older students are not developing, and what we can do about it.

Trong thời điểm chuyển giao giữa nền văn hóa in ấn và kỹ thuật số này, xã hội cần phải đối mặt với những gì đang giảm dần trong mạch đọc cao cấp, điều mà trẻ em và học sinh lớn của chúng ta đang chưa phát triển và điều chúng ta có thể làm với nó.

 

We know from research that the reading circuit is not given to human beings through a genetic blueprint like vision or language; it needs an environment to develop.

Qua nghiên cứu, chúng ta biết rằng mạch đọc không được cung cấp cho con người thông qua bản thiết kế di truyền như thị giác hoặc ngôn ngữ; nó cần một môi trường để phát triển.

 

Further, it will adapt to that environment’s requirements - from different writing systems to the characteristics of whatever medium is used.

Hơn nữa, nó sẽ thích ứng với các yêu cầu của môi trường - từ các hệ thống chữ viết khác nhau đến các đặc điểm của bất kỳ môi trường nào được sử dụng.

 

If the dominant medium advantages processes that are fast, multi-task oriented and well-suited for large volumes of information, like the current digital medium, so will the reading circuit.

Nếu môi trường vượt trội có lợi cho các quá trình xảy ra nhanh, định hướng đa tác vụ và phù hợp với khối lượng thông tin lớn, như phương tiện kỹ thuật số hiện tại, thì mạch đọc cũng vậy.

 

As UCLA psychologist Patricia Greenfield writes, the result is that less attention and time will be allocated to slower, time-demanding deep reading processes.

Như nhà tâm lý học Patricia Greenfield của UCLA viết, kết quả là sẽ có ít sự chú ý hơn và thời gian sẽ được phân bổ cho các quá trình đọc sâu, đọc chậm và đòi hỏi nhiều thời gian.

 

Increasing reports from educators and from researchers in psychology and the humanities bear this out.

Ngày càng có nhiều báo cáo từ các nhà giáo dục và từ các nhà nghiên cứu tâm lý học và khoa học nhân văn công nhận điều này.

 

English literature scholar and teacher Mark Edmundson describes how many college students actively avoid the classic literature of the 19th and 20th centuries in favour of something simpler as they no longer have the patience to read longer, denser, more difficult texts.

Học giả và giáo viên văn học Anh Mark Edmundson mô tả có nhiều sinh viên đại học chủ động tránh những tác phẩm văn học cổ điển của thế kỷ 19 và 20, họ thích những thứ đơn giản hơn vì họ không còn đủ kiên nhẫn để đọc những văn bản dài, mật độ dày và khó hơn.

 

We should be less concerned with students’ ‘cognitive impatience’, however, than by what may underlie it: the potential inability of large numbers of students to read with a level of critical analysis sufficient to comprehend the complexity of thought and argument found in more demanding texts.

Tuy nhiên, chúng ta nên bớt quan tâm đến 'sự thiếu kiên nhẫn trong nhận thức' của học sinh hơn so với điều có thể làm nền tảng cho nó: hạn chế tiềm ẩn của một số lượng lớn học sinh để đọc với một mức độ phân tích phê bình đủ để hiểu được sự phức tạp của suy nghĩ và lập luận được tìm thấy trong những văn bản yêu cầu nhiều hơn.

 

Multiple studies show that digital screen use may be causing a variety of troubling downstream effects on reading comprehension in older high school and college students.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng màn hình kỹ thuật số có thể gây ra nhiều tác động khó lường sau này đối với khả năng đọc hiểu ở học sinh lớn hơn bậc trung học và đại học.

 

In Stavanger, Norway, psychologist Anne Mangen and her colleagues studied how high school students comprehend the same material in different mediums.

Tại Stavanger, Na Uy, nhà tâm lý học Anne Mangen và các đồng nghiệp của cô đã nghiên cứu cách học sinh trung học hiểu cùng một tài liệu thông qua các phương tiện khác nhau.

 

Mangen’s group asked subjects questions about a short story whose plot had universal student appeal; half of the students read the story on a tablet, the other half in paperback.

Nhóm của Mangen đặt câu hỏi cho các đối tượng về một câu chuyện ngắn có cốt truyện thu hút toàn bộ học sinh; một nửa số học sinh đọc câu chuyện trên máy tính bảng, nửa còn lại đọc sách bìa mềm.

 

Results indicated that students who read on print were superior in their comprehension to screen-reading peers, particularly in their ability to sequence detail and reconstruct the plot in chronological order.

Kết quả chỉ ra rằng những sinh viên đọc trên bản in có khả năng hiểu cao hơn so với các bạn đọc trên màn hình, đặc biệt là ở khả năng xâu chuỗi các chi tiết và tái hiện lại cốt truyện theo trình tự thời gian.

 

Ziming Liu from San Jose State University has conducted a series of studies which indicate that the ‘new norm’ in reading is skimming, involving word-spotting and browsing through the text.

Ziming Liu từ Đại học Bang San Jose đã thực hiện một loạt nghiên cứu chỉ ra rằng 'tiêu chuẩn mới' trong việc đọc là đọc lướt, bao gồm việc dò từ và xem qua văn bản.

 

Many readers now use a pattern when reading in which they sample the first line and then wordspot through the rest of the text.

Nhiều độc giả hiện sử dụng một kiểu đọc, trong đó họ thử đọc từ dòng đầu tiên và sau đó là dò từ qua phần còn lại của văn bản.

 

When the reading brain skims like this, it reduces time allocated to deep reading processes.

Khi não đọc lướt như vậy, nó làm giảm thời gian phân bổ cho quá trình đọc sâu.

 

In other words, we don’t have time to grasp complexity, to understand another’s feelings, to perceive beauty, and to create thoughts of the reader’s own.

Nói cách khác, chúng ta không có thời gian để nắm bắt nhanh sự phức tạp, để hiểu cảm xúc của người khác, cảm nhận vẻ đẹp và tạo ra suy nghĩ của riêng người đọc.

 

The possibility that critical analysis, empathy and other deep reading processes could become the unintended ‘collateral damage’ of our digital culture is not a straightforward binary issue about print versus digital reading.

Khả năng phân tích phê bình, sự đồng cảm và các quy trình đọc sâu khác có thể trở thành "thiệt hại ngoài dự kiến” đối với nền văn hóa kỹ thuật số của chúng ta không phải là một ấn phẩm hệ nhị phân đơn giản về bản in và việc đọc kỹ thuật số.

 

It is about how we all have begun to read on various mediums and how that changes not only what we read, but also the purposes for which we read.

Đó là về cách tất cả chúng ta bắt đầu đọc trên nhiều phương tiện khác nhau và cách nó thay đổi không chỉ những gì chúng ta đọc mà còn cả mục đích chúng ta đọc.

 

Nor is it only about the young.

Nó cũng không phải chỉ nói về thế hệ trẻ.

 

The subtle atrophy of critical analysis and empathy affects US all equally.

Sự suy giảm không rõ ràng trong sự phân tính phê bình và sự đồng cảm ảnh hưởng đồng đều lên khắp Hoa Kỳ.

 

It affects our ability to navigate a constant bombardment of information.

Nó ảnh hưởng đến khả năng của chúng ta trong việc điều hướng cơn mưa không dứt những thông tin.

 

It incentivizes a retreat to the most familiar stores of unchecked information, which require and receive no analysis, leaving us susceptible to false information and irrational ideas.

Nó khuyến khích việc rút lui vào những kho thông tin quen thuộc nhất chưa được kiểm duyệt, vốn không yêu cầu và không nhận được sự phân tích, khiến chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi những thông tin sai lệch và những ý tưởng phi lý.

 

There’s an old rule in neuroscience that does not alter with age: use it or lose it.

Có một quy tắc cũ trong khoa học thần kinh mà không thay đổi theo tuổi tác: sử dụng nó hoặc mất nó.

 

It is a very hopeful principle when applied to critical thought in the reading brain because it implies choice.

Đó là một nguyên tắc rất triển vọng khi áp dụng cho tư duy phản biện trong não bộ đọc vì nó ngụ ý sự lựa chọn.

 

The story of the changing reading brain is hardly finished.

Câu chuyện thay đổi bộ não đọc thì gần như không kết thúc.

 

We possess both the science and the technology to identify and redress the changes in how we read before they become entrenched.

Chúng ta sở hữu cả khoa học và công nghệ để xác định và khắc phục những thay đổi trong cách chúng ta đọc trước khi chúng trở nên cố thủ.

 

If we work to understand exactly what we will lose, alongside the extraordinary new capacities that the digital world has brought US, there is as much reason for excitement as caution.

Nếu chúng ta cố gắng hiểu chính xác những gì chúng ta sẽ mất, cùng với những khả năng mới phi thường mà thế giới kỹ thuật số đã mang lại cho Hoa Kỳ, thì càng có nhiều lý do để phấn khích cũng như thận trọng.

 

 

Từ vựng trong bài

pacifier: núm vú giả

toddlers: trẻ tập đi

a flotilla of: một loạt

neuronal circuit: mạch tế bào thần kinh

depicts: mô tả

intellectual and affective processes: quá trình trí tuệ và tình cảm

hinge moment: thời điểm chuyển giao

genetic blueprint: bản thiết kế di truyền

cognitive impatience’: sự thiếu kiên nhẫn trong nhận thức'

paperback: sách bìa mềm

chronological order: trình tự thời gian

word-spotting: dò từ

a constant bombardment of information: cơn mưa không dứt những thông tin

irrational ideas: ý tưởng phi lý

 

VIE
View Question


abc